Thứ Năm, 25 tháng 12, 2014

Hòa hợp trong tôn giáo - ĐỨC GIOAN-PHAOLÔ II VỚI QUAN NIỆM CỦA NGÀI VỀ PHẬT GIÁO

ĐỨC GIOAN-PHAOLÔ II
VỚI QUAN NIỆM CỦA NGÀI VỀ PHẬT GIÁO
NGUYỄN CHÍNH KẾT
(Bài nói chuyện với các tu sĩ Đaminh,
tại dòng Đaminh Gò Vấp, ngày 23-11-1995).
1. Những ý tưởng này chỉ là của một cá nhân hiểu biết rất giới hạn cả về Kitô giáo lẫn Phật giáo, thậm chí chưa nghiên cứu sâu xa cho đủ về vấn đề mình muốn nói. Do đó, chắc chắn không thể nào tránh được những thiếu xót, thậm chí sai lầm nữa. Rất mong những bậc cao minh cảm thông, chỉ dẫn.
2. Cuốn sách «Bước vào Hy Vọng», chắc chắn Đức Giáo Hoàng viết cho các tín hữu của Ngài để củng cố đức tin và khơi lên niềm hy vọng cho họ trước khi bước vào thiên niên kỷ thứ ba, chứ không nhắm viết cho người ngoài Giáo Hội. Bằng chứng cụ thể là khi cần chứng minh một quan điểm nào, thì ngài chỉ dùng Kinh Thánh hay Công Đồng Vatican II, là những thứ không gây tác dụng thuyết phục đối với những người ngoài Kitô giáo. Nếu ngài nhắm viết cho tất cả mọi người, ắt ngài phải viết theo một lối viết khác hẳn. Vì nhắm viết cho người Kitô hữu, nên ngài đã dùng những ý niệm quen thuộc với lối suy nghĩ Kitô giáo, nhưng lại có thể xa lạ với những người ngoài Giáo Hội. Xa lạ đến nỗi có thể làm cho họ hiểu lầm và bất mãn với từ ngữ cũng như những cách diễn tả của ngài. Việc cuốn sách được phổ biến quá rộng rãi, vượt khỏi phạm vi nội bộ Kitô giáo, trở thành một thứ «best seller», có thể không nằm trong ý muốn và dự kiến của ngài cho bằng của những nhà xuất bản sách muốn kinh doanh làm giàu. Người Phật tử nên độ lượng cắt nghĩa tốt cho ngài thì hay hơn, vừa phù hợp với tinh thần hỷ xả của Đức Phật, vừa tạo được hòa khí, và theo thiển ý tôi, vừa có cơ may đúng với thực tế hơn.
3. Tuy nhiên, những điều Đức Giáo Hoàng nói về Phật giáo trong cuốn «Bước vào Hy vọng» đã khiến cho nhiều Phật tử cảm thấy tôn giáo của mình bị xúc phạm – đó là một sự kiện không thể chối cãi được – và họ đã lên tiếng bênh vực đạo giáo của họ. Sự bênh vực này chắc chắn có thể làm cho nhiều người Kitô hữu – tới phiên mình – cảm thấy tôn giáo của mình bị xúc phạm, và tự nhận thấy có bổn phận phải lên tiếng bênh vực. Việc mỗi bên bênh vực tôn giáo của mình như thế rất khó tránh khỏi đụng chạm vì phải phê bình tôn giáo của nhau, dễ gây tổn thương lẫn nhau. Bênh vực tôn giáo của mình đồng thời phê bình tôn giáo của người mà chưa hiểu rõ được tôn giáo ấy thì chỉ làm tổn thương lẫn nhau thôi. Chúng ta nên vượt lên trên sự hợp lý và chính đáng bình thường của con người – sự hợp lý và chính đáng thúc đẩy ta phải bảo vệ tôn giáo của mình – để chúng ta đặt nặng tinh thần đoàn kết yêu thương nhau giữa các tôn giáo. Nếu hai bên chỉ lo bảo vệ tôn giáo mình để rồi làm tổn thương tôn giáo khác, thì cả hai bên đều phản bội lại tinh thần từ bi hay bác ái của giáo chủ mình. Các vị ấy chẳng bao giờ muốn chúng ta bảo vệ lập trường của các ngài hay bảo vệ lập trường tôn giáo của mình đến nỗi xúc phạm lẫn nhau, chia rẽ nhau. Chúng ta nên đặt quyền lợi chung và tình đoàn kết giữa hai tôn giáo lên trên cả sự bảo vệ tôn giáo của riêng chúng ta.
4. Đức Gioan Phaolô II là một giáo hoàng rất uyên bác, nhưng ngài không phải là người chuyên môn về Phật giáo, cũng giống như ngài không chuyên môn về khoa học. Nếu chúng ta chấp nhận rằng những Phật tử cao cấp có thể hiểu về Phật giáo hơn Đức Giáo Hoàng, thì khi họ bảo Đức Giáo Hoàng nói không đúng về họ, thiết tưởng ta nên trân trọng ý kiến của họ. Cũng như khi một vị cao cấp bên Phật giáo nói gì về Kitô giáo mà người Kitô hữu có uy tín bảo là sai, thì họ nên tôn trọng ý kiến của người Kitô hữu đó. Tự bào chữa hay phản ứng lại không hẳn đã hay, đã hợp với tinh thần hòa nhã của Đấng sáng lập tôn giáo mình. Thái độ của Đức Gioan-Phaolô II cũng như của Đức Tổng Giám Mục ở Sri Langka và nhà thần học A. Pieris – ngỏ lời xin lỗi và nhìn nhận sự thiếu xót của mình – là một thái độ can đảm và phục thiện, nói lên tinh thần khiêm nhường và tôn trọng chân lý của người Kitô hữu.
5. Trên nguyên tắc, khi Đức Giáo Hoàng nói những gì ngoài phạm vi tín lý và luân lý trong Giáo Hội, và không nói với tư cách «ex cathedra», thì ngài vẫn có thể sai lầm hoặc thiếu xót. Có lẽ tất cả mọi Kitô hữu, cho dù chính thống hay tôn kính Đức Thánh Cha tới đâu, cũng không thần thánh hóa ngài đến mức cho rằng ngài bất khả ngộ trong tất cả mọi điều ngài nói. Vì thế, trong trường hợp này, cho dẫu ngài có nói sai về Phật giáo đi nữa, thì niềm tin tưởng của người Công giáo về tính «vô ngộ» của ngài, thiết tưởng không nên vì thế mà bị tổn thương.
Giải thích một vài điểm gây hiểu lầm:
Đọc cuốn «Bước vào Hy vọng» của Đức Gioan-Phaolô II và cuốn «Đối thoại với Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II» của một số Phật tử, tôi nhận thấy có một vài từ ngữ hay một vài ý niệm của Đức Giáo Hoàng đã gây hiểu lầm. Tôi chỉ xin đan cử một vài thí dụ mà tôi cho là biểu trưng nhất, đồng thời trình bầy quan điểm hạn hẹp của tôi.
1. Từ ngữ «vô thần»:
Đức Giáo Hoàng viết: «Một phần rất lớn, Phật giáo là một hệ thống vô thần».
Chữ «vô thần» trong câu này chắc chắn mang ý nghĩa như người Kitô giáo vẫn hiểu: vô thần là không công nhận có Thiên Chúa tạo dựng nên vũ trụ vạn vật, nghĩa là không chấp nhận có Hóa Công hay Đấng Tạo Hóa. Nếu hiểu «vô thần» như thế thì Đức Giáo Hoàng nói rất đúng, không sai chút nào, vì giáo lý của Đức Phật dạy như vậy. Nhưng khi đọc cuốn "Bước vào Hy vọng", người Phật tử lại hiểu chữ «vô thần» theo nghĩa họ thường hiểu: Vô thần là chủ trương không có thần thánh, thần linh nào cả, không có thế giới linh thiêng. Chữ «thần» được họ hiểu là thần linh (deus viết thường), chứ không phải là Thiên Chúa (Deus viết hoa). Nếu «vô thần» trong lời Đức Giáo Hoàng mà có ý nghĩa như thế thì Đức Giáo Hoàng đã nói sai và nói oan cho Phật Giáo, vì Phật giáo tuy không công nhận có Thiên Chúa, nhưng vẫn nhìn nhận có thế giới thiêng liêng, thế giới «vô vi», có các vị «thiên» sinh sống (tương tự như thiên thần ở bên Kitô giáo). Vả lại, khi nghe nói tôn giáo của mình bị gọi là «vô thần», người Phật tử có thể có cảm tưởng tôn giáo mình bị đồng hóa với những chủ thuyết vô thần, vô tín ngưỡng, và cảm thấy bị xúc phạm. Đây rõ ràng là sự hiểu lầm về từ ngữ, chứ Đức Giáo Hoàng không có hậu ý gì khác.
2. «Thế gian là nguồn bất hạnh và đau khổ»
Đức Giáo Hoàng viết: «Phật giáo xác tín rằng thế gian này là xấu, là nguồn phát sinh bất hạnh và đau khổ cho con người».
Khi viết điều này, có thể Đức Giáo Hoàng đã căn cứ trên lời Phật nói: «Đời là bể khổ», và khổ đến nỗi «nước mắt của chúng sinh bao nhiêu thế hệ cộng lại còn nhiều hơn nước sông Hằng». Và mục đích của Phật giáo là giải thoát, thoát khổ: «Cũng như biển chỉ có một vị mặn, giáo lý của ta chỉ có một vị duy nhất là vị giải thoát». Phật nói «đời là bể khổ», khiến cho rất nhiều người có cảm tưởng Phật rất bi quan về thế giới. Nói «đời là bể khổ» dễ làm cho người ta nghĩ rằng thế gian này là nguồn gốc phát sinh đau khổ. Và không phải chỉ có Đức Giáo Hoàng hay các nhà Phật học Tây Phương mới nghĩ là Phật giáo bi quan yếm thế về thế giới, mà nhiều học giả tại Việt Nam cũng như tại Á Châu đã nghĩ như vậy.
Chỉ những ai hiểu sâu sắc về Phật giáo mới thấy Phật giáo không hề bi quan như vậy. Vả lại, Phật nhận thấy «Đời là bể khổ» trước khi ngài lên đường tìm chân lý. Khi giác ngộ chân lý rồi, ngài nhận thấy rằng nguyên nhân của cái khổ không phải là do khách quan, nghĩa là không phải do thế giới này, mà chủ yếu là do chủ quan: do cái nhìn của mình bị vướng mắc, do tâm hồn của mình chưa thanh tịnh (trong sạch), do nghiệp lực của mình còn nặng nề vì những tội ác đã làm… Khi cái nhìn thay đổi, khi nghiệp lực đã trả hết, thì ngay tức khắc, chính thế gian mà ta đang sống đây trở thành Quốc Độ Phật, đầy trang nghiêm thanh tịnh (Kinh Duy Ma Cật, Phẩm 1: Phật Quốc). Do đó, chỉ cần thay đổi cách nhìn về thế gian thì thế gian sẽ thay đổi. Tương tự như: «Người vui thì cảnh cũng vui, người buồn cảnh có vui đâu bao giờ». Nghĩa là sau khi giác ngộ, Phật không còn cho thế gian là nguồn gốc của đau khổ nữa. Muốn thoát khổ, phải thay đổi cách nhìn thực tại bằng cách phát triển trí tuệ của mình. Phật xác quyết một cách rất lạc quan và chắc chắn: cứ thực hành giáo pháp của ngài thì chắc chắn sẽ thoát khổ. Không phải chỉ thoát khổ mà còn an lạc nữa, thứ an lạc thường hằng không ai lấy mất được.
Việc hiểu lầm trên cũng tương tự như trường hợp có người căn cứ vào quan niệm «ba thù» (ma quỉ, thế gian, xác thịt) mà người Công giáo vẫn thường nói, để rồi kết luận rằng người Công giáo coi thế gian và thể xác của mình là xấu xa, là kẻ thù. Như thế quả có phần hợp lý, nhưng rõ ràng là không đúng. Vì thế gian và xác thịt trong từ «ba thù» không phải chỉ là thế gian hay thân xác theo nghĩa thường nói, mà là tinh thần thế tục (thích hưởng thụ, ích kỷ) và sự nặng nề yếu đuối của thân xác (như tính lười biếng, sự ham muốn nhục dục tội lỗi). Nhưng nếu có ai hiểu sai như vậy, người Công giáo vẫn phải thông cảm cho sự hiểu lầm ấy, vì chính trong ngôn ngữ của mình đã có từ «ba thù», trong đó có thế gian và xác thịt. Chính ngôn ngữ của mình đã làm người khác hiểu lầm một cách rất «hợp lý».
3. Từ ngữ «lãnh đạm» hay «vô cảm»:
Đức Giáo Hoàng cho rằng Phật giáo chủ trương «để thoát khỏi những điều xấu này, cần phải thoát ra khỏi thế gian, phải cắt đứt những ràng buộc với thực tại bên ngoài, tức là những ràng buộc mà cơ cấu nhân bản, tâm lý và thể lý áp đặt lên chúng ta. Dần dần nhờ sự giải thoát này, chúng ta sẽ trở nên càng ngày càng lãnh đạm với những gì ở trong thế gian, và chúng ta sẽ thoát khỏi đau khổ, nghĩa là khỏi sự ác đến từ thế gian».
Đối với thế gian chuyển biến dời đổi, Phật dạy phải «điều phục tâm» mình, không để tâm mình xao động trước những cảnh vô thường của thế gian: mất được, ly hợp, tụ tán… thậm chí không còn ham muốn gì cả. Mọi hình thức ham muốn đều tạo nên những nghiệp lực ràng buộc khiến ta bị luân hồi mãi. Khi đọc những đoạn kinh như thế, người ta thường chỉ hiểu nghĩa lý của những câu ấy theo một chiều. Làm tâm mình không bị ảnh hưởng trước ngoại cảnh dễ bị hiểu là lãnh đạm, vô cảm. Nhưng những người am hiểu Phật giáo thì không hiểu một chiều như thế. Điều phục tâm, không để tâm xao động vì ngoại cảnh, một mặt là không để cho ngoại cảnh chi phối được tâm hồn mình, không để cho danh lợi thú làm mờ ám lương tâm mình, không để uy vũ hay bạo lực làm mình sợ hãi. Nhưng mặt khác, người theo Phật lại phải rất gắn bó với thế gian, rất yêu thương thế gian đến nỗi sẵn sàng dấn thân để giúp ích thế gian.
Khi tu học tới một trình độ nào đó, người Phật tử cảm thấy không nên tìm mọi cách để tránh khổ đau nữa vì nhận ra rằng: «Tất cả các phiền não đau khổ đều là hạt giống Như Lai. Tương tự như nếu mình chẳng lặn xuống biển sâu thì không thể tìm thấy châu báu vô giá. Cũng vậy, nếu mình chẳng chịu ngụp lặn trong bể cả phiền não, ắt mình không thể tìm được của báu là cái trí tuệ biết hết tất cả» (Kinh Duy-Ma Cật, Phẩm 8: Phật Đạo). Chính khi không còn sợ bị ràng buộc vào cảnh khổ nữa, thì tâm hồn con người mới tự do, không bị ràng buộc. Kinh Phật dạy như thế, làm sao có thể kết luận là Phật chủ trương lãnh đạm với thế gian được? Vả lại, muốn thành tựu quả vị Bồ Tát, người Phật tử phải dấn thân vào trong thế gian không sợ mệt mỏi, không sợ đau khổ, thậm chí sẵn sàng lăn xả vào đau khổ nữa, với mục đích thương cứu chúng sinh đau khổ. Đức Phật chính là mẫu gương trong việc điều tâm này. Không gì vô thường xảy ra có thể làm cho tâm hồn ngài phải náo loạn, buồn phiền, nhưng ngài lại rất nhạy cảm trước nhu cầu của đồng loại. Tâm từ bi của ngài khiến ngài thương tất cả mọi chúng sinh, cho dù là con kiến hay con muỗi, và sẵn sàng xả thân để cứu giúp. Xét như thế thì ngài đâu có vô cảm, đâu có lãnh đạm với thế gian.
Con đường của Phật là con đường trung đạo, Phật định nghĩa trung đạo như sau: «Hiểu vô ngã là vô ngã, hữu ngã là hữu ngã thì không phải là trung đạo. Thấy vô ngã trong hữu ngã và hữu ngã trong vô ngã mới là trung đạo». Cũng vậy, hiểu vô cảm là vô cảm, lãnh đạm là lãnh đạm không phải là trung đạo; thấy trong lãnh đạm có sự quan tâm, nhạy cảm, trong quan tâm nhạy cảm có sự vô cảm, lãnh đạm mới là trung đạo.
Chữ «lãnh đạm» hay «vô cảm» được dịch từ chữ «indifferent» trong bản tiếng Anh. Dịch như thế chưa được hoàn chỉnh lắm và dễ gây hiểu lầm. «Lãnh đạm», «vô cảm» có nghĩa hơi mạnh, cần phải dịch nhẹ nhàng hơn một chút. Tôi nghĩ phải dịch là «thanh thoát» mới đúng. Thanh thoát là tâm hồn không bị ràng buộc vào thực tại, cho dù vẫn sống cùng với thực tại, vẫn gắn bó với thực tại. Trong chương trình linh thao của Thánh Inhaxiô, có nói tới thái độ «indifferent» này, và được nhiều bản dịch là «siêu thoát», «thanh thoát». Nếu tôi có tâm hồn siêu thoát với tiền bạc, không bị ràng buộc bởi tiền bạc, điều đó không có nghĩa là tôi không cần tiền bạc, tôi không thèm kiếm tiền, hay không quí trọng đồng tiền. Có thể tôi phải trầy da tróc vẩy mới kiếm được đồng tiền để sống, nên tôi rất quí trọng đồng tiền vì nó là công sức của tôi. Nhưng tôi đồng thời vẫn có thể có tâm hồn thanh thoát đối với tiền bạc, tôi không bao giờ để tiền bạc làm mờ ám lương tâm, tôi có thể từ chối nhận tiền khi sự nhận đó làm tổn thương tới lương tâm hay tư cách của tôi. Tôi vẫn luôn luôn giữ được tự chủ trước sự quyến rũ của tiền bạc. Về vần đề này, tôi nghĩ Đức Giáo Hoàng có thể hiểu đúng, nhưng từ ngữ đã phản bội ngài, nhất là người dịch lại càng làm cho người ta hiểu sai hơn nữa.
4. Từ ngữ «tiêu cực»:
Đức Giáo Hoàng có viết: «Truyền thống Phật giáo và những phương pháp tu luyện phát minh từ đó cho ta một thuyết giải thoát hầu như hoàn toàn tiêu cực».
Phương pháp tu luyện của Phật giáo thường chủ yếu được trình bày là diệt trừ tham sân si, hay nói cách khác là diệt dục. Và đích điểm của phương pháp tu luyện này là đạt tới Niết Bàn. Mà Niết Bàn được Phật định nghĩa toàn bằng những phủ định. Bản thân chữ Niết Bàn là phiên âm của từ ngữ Bắc Phạn là Nirvana. Trong đó, NirKhông (phủ định), VanaÁi dục, là sợi dây nối liền hai đời sống. Nirvana hay Niết Bàn là sự dứt bỏ, tách rời (Nir) ra khỏi ái dục (Vana), khỏi sự thèm khát nhục dục. Để vào được Niết Bàn, giảm bớt ham muốn mà thôi chưa đủ, còn phải tiêu diệt mọi ham muốn, thậm chí cả ham muốn vào Niết Bàn nữa. Vì bất kỳ ham muốn nào cũng tạo nên nghiệp lực giữ chúng sinh lại trong vòng luân hồi. Ngay cả cái «tôi» mà ta vẫn cảm nghiệm được và coi nó là chính mình đây, cũng phải được quan niệm là giả, là vọng, là hư ảo.
Trong một trình độ nào đó, thì Phật giáo được trình bày như thế. Trình bày như thế rất đúng với giáo lý Phật giáo. Nghe trình bày như thế, người ta dễ có cảm tưởng cứu cánh của Phật giáo rất là tiêu cực. Chính tôi, người viết bài này, cũng đã từng hiểu như thế khi tìm hiểu Phật giáo. Vì thế tôi râát thông cảm với Đức Giáo Hoàng khi ngài cho rằng phương pháp tu luyện của Phật giáo hoàn toàn tiêu cực. Tôi cho rằng ngài rất có lý khi hiểu như thế. Tuy nhiên, tìm hiểu Phật giáo sâu hơn, tôi không còn hiểu như thế nữa. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đây, chỉ hiểu tới đây, thì mọi ngưòi Kitô hữu đều có thể kết luận như Đức Giáo Hoàng rằng mục đích của Kitô giáo vượt xa hơn như thế. Tình trạng Niết Bàn mà Phật giáo coi như mục đích của mình chỉ là một giai đoạn mà người Kitô hữu phải đạt tới để rồi phải vượt qua để đi đến mục đích xa hơn. Cái mà Phật giáo coi là mục đích thì Kitô giáo chỉ coi là phương tiện. Nghe một Kitô hữu nhận định như thế, có Phật tử nào mà không cảm thấy trạnh lòng?
Tìm hiểu Phật giáo sâu xa hơn, tôi không còn quan niệm như thế. Cái cốt tủy của Phật giáo không nằm ở chỗ diệt trừ tham sân si hay diệt dục, mà là giác ngộ được chân tính hay thật tướng của mình, mà Phật giáo gọi là kiến tánh. Kiến tánh là giác ngộ được mình và Chân Như Tuyệt Đối là một, mình đã là Phật từ muôn lượng kiếp. Sự giác ngộ này đem lại sự giải thoát, an vui, hạnh phúc, thân tâm luôn an lạc. Sự diệt dục hay diệt tham sân si chỉ là để tạo điều kiện thuận lợi cho mình phát sinh trí huệ bát nhã hầu có thể giác ngộ hay kiến tánh.
Về sau, tôi mới phần nào hiểu được Niết Bàn là tích cực. Niết Bàn là một «trạng thái» có thực, không phải là «hư vô», tiêu cực. Vì là một trạng thái chỉ những người đắc đạo mới chứng ngộ được, và không có một kinh nghiệm nào tương đương với những kinh nghiệm của người thường, nên Đức Phật chỉ có thể diễn tả thực tại này bằng những phủ định: nó không phải là cái này hay cái kia, chứ không thể xác định nó là cái gì. Do đó, những người chưa hiểu nhiều về đạo Phật, thường quan niệm Niết Bàn là một cái gì tiêu cực, thậm chí đồng hóa nó với hư vô nữa.
Một minh họa giúp ta dễ hiểu. Đối với ai có mắt sáng như chúng ta, thì mầu sắc là một thực tại hết sức thiết thực, hoàn toàn tích cực. Nhưng nếu ta lạc vào một xứ gồm toàn những người mù bẩm sinh, mù từ thời tổ tiên bao đời trước. Những người này không ai có một kinh nghiệm gì về màu sắc cả. Nếu ta phải diễn tả cho họ về màu sắc thì ta biết nói màu sắc là gì đây? Cái gì tương đối tích cực để diễn tả màu sắc thì đều vượt khỏi tất cả những kinh nghiệm họ có được. Họ sẽ có khuynh hướng nghĩ màu sắc là cái này cái nọ mà họ có thể quan niệm được theo kinh nghiệm họ đã có. Như vậy chắc chắn là họ quan niệm sai về màu sắc, khiến ta phải phủ nhận rằng màu sắc không hề là những thứ đó, và ta không thể làm khác hơn. Thế là họ bắt đầu nghĩ rằng màu sắc là hư vô, là một cái gì hết sức tiêu cực. Cũng tương tự như thế, nhiều người học Phật khi nghe Phật tổ diễn tả Niết Bàn bằng cách phủ nhận tất cả như thế, liền có thái độ như những người trong minh họa trên.
Theo Đức Phật, Niết Bàn là một thực tại có thật, rất tích cực, nhưng siêu thế, siêu nghiệm, không thuộc bình diện hiện tượng, nên bất biến, vĩnh cửu, bất khả tư nghị. Đức Phật đã mô tả Niết Bàn bằng những từ ngữ như: Vô tận, Bất tùy thế, Vô Song, Tối Cao, Tối Thượng, Bỉ Ngạn (đến bờ bên kia), Chỗ Nương Tựa Tối Thượng, Chu Toàn, Bảo Đảm, Hạnh Phúc, Duy Nhất, Bất Khả Diệt, Phi Nhân, Tuyệt Đối Thanh Tịnh, Siêu Thế, Vĩnh Cửu, Giải Thoát, Vắng Lặng… Nếu đem so sánh mhững thuộc tính mà Đức Phật dùng để diễn tả Niết Bàn với những thuộc tính mà người Kitô hữu dùng để diễn tả Thiên Chúa, ta thấy có nhiều trùng hợp rõ rệt. Với những thuộc tính đó làm sao ta bảo Niết Bàn là tiêu cực được? Trái lại, với những thuộc tính đó, Niết Bàn phải được coi là tích cực hơn tất cả những gì tích cực nhất ta có thể quan niệm được. Niết Bàn đó chính là mục tiêu cứu cánh của Đạo Phật, cũng là cứu cánh của tất cả mọi chúng sinh.
Để kết luận
Bất kỳ ai tìm hiểu về Phật giáo cũng đều phải trải qua quá trình từ không hiểu đến hiểu, từ hiểu ít đến hiểu nhiều, từ hiểu sai đến hiểu đúng. Đức Giáo Hoàng có thể hiểu rất rõ và rất đúng về Kitô giáo, nhưng đối với Phật giáo, ngài có thể hiểu ít, hiểu chưa chính xác, vì ngài đã không tìm hiểu nhiều về tôn giáo này. Do đó, nếu ngài có nói gì thiếu xót, ta nên thông cảm và tránh những gì xúc phạm đến ngài, vì chắc chắn những người thông thái nhất về Phật giáo, khi mới tìm hiểu về Đạo Phật, cũng đã từng trải qua những kinh nghiệm như hiểu sai, hiểu một cách ngờ nghệch…. Nếu ta chê bai đả kích những người hiểu biết ít hơn ta, thì có thể chính ta đã đi sai tinh thần của Phật giáo rồi!
NGUYỄN CHÍNH KẾT

Không có nhận xét nào: